XÁC MINH ĐỊA CHỈ CỦA NGƯỜI BỊ KIỆN KHI KHỞI KIỆN TẠI TÒA ÁN (PHẦN II)
Trong bài viết Phần I, TNTP đã hướng dẫn về cách xác minh địa chỉ của người bị kiện theo yêu cầu của Tòa án cũng như biện pháp giải quyết trường hợp người khởi kiện không thể xác minh địa chỉ của người bị kiện khi khởi kiện vụ án dân sự tài Tòa án. Tiếp theo bài viết Phần I, tại bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích và hướng dẫn về việc khiếu nại Quyết định trả lại đơn khởi kiện của Tòa án do không chấp nhận giải trình của người khởi kiện về việc không thể xác minh địa chỉ của người bị kiện.
1. Căn cứ trả lại đơn khởi kiện của Tòa án
Thông thường, nếu người khởi kiện không xác minh được địa chỉ của người bị kiện theo yêu cầu của Tòa án thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện căn cứ vào Điều 192.1.e Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định về Trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện. Theo đó, thẩm phán cho rằng người khởi kiện không ghi đầy đủ, cụ thể hoặc ghi không đúng địa chỉ của người bị kiện mà không sửa chữa, bổ sung theo yêu cầu của Thẩm phán nên trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 193.2 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015. Tuy nhiên, không thể đồng nhất việc không thể xác minh được địa chỉ của người bị kiện với trường hợp không ghi đầy đủ, cụ thể hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện mà không sửa chữa, bổ sung. Do đó căn cứ tại Điều 192.1.e Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 mà Tòa án đưa ra để trả lại đơn khởi kiện là chưa phù hợp.
2. Căn cứ khiếu nại Quyết định trả lại đơn khởi kiện của Tòa án
– Quy định của pháp luật về việc ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện
Căn cứ theo quy định tại Điều 5 Nghị quyết số 04/2017/HĐTP, địa chỉ của người bị kiện được quy định như sau: (i) Trường hợp người bị kiện là công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống thì nơi cư trú của họ là địa chỉ chỗ ở hợp pháp mà người bị kiện đã đăng ký thường trú, tạm trú hoặc trường hợp không xác định được nơi thường trú, tạm trú thì xác định theo nơi ở hiện tại của người bị kiện; (ii) Trường hợp người bị kiện là người nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam thì nơi cư trú của họ được xác định theo địa chỉ tại Chứng nhận tạm trú, thẻ tạm trú, thẻ thường trú do cơ quan có thẩm quyền cấp; (iii) Trường hợp người bị kiện là người nước ngoài, người Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài thì nơi cư trú của họ được xác định căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do người khởi kiện cung cấp hoặc theo tài liệu, chứng cứ do cơ quan có thẩm quyền cấp, xác nhận; và (iv) Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức có quốc tịch Việt Nam thì địa chỉ của cơ quan, tổ chức được xác định là nơi cơ quan, tổ chức đó có trụ sở chính hoặc chi nhánh theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Cũng theo quy định này, nếu người khởi kiện đã cung cấp địa chỉ “nơi cư trú, làm việc, hoặc nơi có trụ sở” của người bị kiện cho Tòa án theo đúng quy định trên tại thời điểm nộp đơn khởi kiện và đã được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện thì được coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện.
– Người khởi kiện đã cung cấp địa chỉ của người bị kiện và có căn cứ chứng minh
Khi người khởi kiện cung cấp địa chỉ của người bị kiện theo Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu, Chứng nhận tạm trú, thẻ tạm trú… (“Giấy tờ chứng thực cá nhân”) đối với cá nhân, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đối với pháp nhân và các tài liệu này đang có hiệu lực tại thời điểm nộp đơn khởi kiện thì người khởi kiện được coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện do đây là những tài liệu chứa đựng thông tin về địa chỉ do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp.
Ngoài ra, trường hợp người khởi kiện không có thông tin Giấy tờ chứng thực cá nhân của người bị kiện nhưng cung cấp địa chỉ dựa theo Hợp đồng mà các bên đã ký kết thì được coi là có căn cứ khác chứng minh địa chỉ của người bị kiện theo Điều 6.2.a Nghị quyết số 04/2017/HĐTP.
Nếu người khởi kiện đã cung cấp các tài liệu địa chỉ của người khởi kiện như trên mà Tòa án vẫn yêu cầu địa chỉ đó phải được cơ quan có thẩm quyền xác nhận thì có nghĩa người khởi kiện phải chứng minh thêm một lần nữa dù đã có căn cứ chứng minh. Mặt khác, khi người khởi kiện đã tiến hành nộp Đơn đề nghị cơ quan Công an để xác nhận địa chỉ của người bị kiện nhưng bị từ chối và đã giải trình với Tòa án thì không thể coi là người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện. Do đó, việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án đã gây khó khăn, kéo dài quá trình khởi kiện và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người khởi kiện.
– Quy định của pháp luật về khiếu nại Quyết định trả lại đơn khởi kiện
Căn cứ tại Điều 70.22 và Điều 194.1 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện, người khởi kiện có quyền khiếu nại với Tòa án về việc trả lại đơn khởi kiện.
Như vậy trong trường hợp người khởi kiện có căn cứ chứng minh đơn khởi kiện đã thể hiện đầy đủ và đúng địa chỉ của người bị kiện theo quy định của pháp luật nhưng Tòa án quyết định trả lại đơn khởi kiện với lý do đơn khởi kiện không được sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Tòa án thì người khởi kiện có quyền khiếu nại Quyết định này của Tòa án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Với những chia sẻ pháp lý về xác minh địa chỉ của người bị kiện nói chung và khiếu nại Quyết định trả lại đơn khởi kiện nói riêng, chúng tôi hy vọng bài viết này giúp ích cho các bạn trong quá trình khởi kiện tại Tòa án.
Trân trọng.
Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự